Nằm trong nhóm 21 tỉnh, thành có tỷ lệ sinh thấp, dưới mức thay thế, Đồng Nai đang phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số và thiếu hụt lao động trẻ trong lương lai. Đây không chỉ là vấn đề của mỗi gia đình mà còn là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của địa phương trước những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Theo ThS Võ Thị Ngọc Lắm – Phó giám đốc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai, mức sinh không chỉ là một chỉ số nhân khẩu học, mà còn là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển ổn định và bền vững của địa phương. Vì vậy, việc triển khai các giải pháp đồng bộ, hiệu quả để duy trì mức sinh hợp lý là điều cấp thiết, nhằm đảm bảo nguồn nhân lực ổn định, tạo động lực phát triển trong tương lai.

ThS Võ Thị Ngọc Lắm, Phó giám đốc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai.
PV: Đồng Nai đang đối mặt với tình trạng mức sinh giảm. Bà có thể cho biết cụ thể mức sinh hiện tại của tỉnh? So với mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ) chúng ta đang chênh lệch như thế nào? Đặc biệt, những năm gần đây xu hướng này đã diễn biến ra sao?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Đồng Nai hiện thuộc nhóm 21 tỉnh, thành có mức sinh thấp trên cả nước. Năm 2024, dân số toàn tỉnh đạt hơn 3,3 triệu người, nhưng chỉ có hơn 32 ngàn trẻ sơ sinh chào đời. Tổng tỷ suất sinh (TFR) hiện nay của tỉnh chỉ đạt 1,52 con/phụ nữ, thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế là 2,1 con/phụ nữ. Điều này cho thấy số trẻ em sinh ra không đủ để bù đắp lượng người già đi, dẫn đến nguy cơ suy giảm dân số trong tương lai.
Những năm gần đây, mức sinh tại Đồng Nai giảm mạnh. Năm 2009, tỷ suất sinh vẫn duy trì quanh mức 2,1 con/phụ nữ, nhưng đến năm 2024, con số này giảm xuống chỉ còn 1,52 – mức thấp nhất từ trước đến nay. Đặc biệt, tình trạng mức sinh thấp tập trung chủ yếu ở các đô thị phát triển, nơi áp lực kinh tế và công việc khiến nhiều cặp vợ chồng ngần ngại sinh con.
PV: Mức sinh thấp sẽ tác động ra sao đến cơ cấu dân số, nguồn nhân lực và sự phát triển kinh tế - xã hội của Đồng Nai trong tương lai, thưa bà?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Mức sinh thấp tại Đồng Nai đang đặt ra những hệ lụy đáng lo ngại đối với cơ cấu dân số và nguồn nhân lực trong tương lai. Khi tổng tỷ suất sinh (TFR) duy trì dưới mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ), quy mô dân số có nguy cơ suy giảm, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ – yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trước hết, mức sinh thấp kéo dài sẽ đẩy nhanh quá trình già hóa dân số. Khi tỷ lệ người cao tuổi gia tăng, áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, chăm sóc y tế và quỹ hưu trí cũng ngày càng lớn, đặt ra thách thức không nhỏ cho chính quyền địa phương.
Thứ hai, Đồng Nai có thể đối diện với tình trạng thiếu hụt lao động trẻ, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng thu hút đầu tư. Việc tìm kiếm nguồn nhân lực thay thế sẽ trở nên khó khăn hơn, đặc biệt trong bối cảnh tỉnh có nhiều khu công nghiệp, đòi hỏi một lực lượng lao động dồi dào, ổn định.
Thứ ba, mức sinh thấp sẽ làm cho giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” của Đồng Nai qua nhanh hơn. Đây là thời kỳ mà số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc (trẻ em và người già), tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu mức sinh tiếp tục giảm sâu, tỉnh sẽ sớm bước vào giai đoạn già hóa trước khi kịp khai thác hết tiềm năng từ lợi thế dân số này.
Nếu tình trạng này không được cải thiện, Đồng Nai sẽ phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế - xã hội trong dài hạn. Do đó, việc triển khai các giải pháp nhằm điều chỉnh mức sinh hợp lý, đảm bảo sự cân bằng dân số và phát triển bền vững là điều cấp thiết.
PV: Đâu là nguyên nhân chính khiến nhiều cặp vợ chồng ở Đồng Nai ngại sinh con hoặc chỉ sinh một con thưa bà?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Mức sinh thấp tại Đồng Nai xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó đáng chú ý nhất là áp lực kinh tế. Chi phí sinh hoạt, đặc biệt là nuôi dạy con cái ngày càng tăng cao, bao gồm giáo dục, y tế, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác. Nhiều cặp vợ chồng lo ngại không đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống tốt cho con nếu sinh nhiều con.
Áp lực công việc cũng là một rào cản lớn. Trong môi trường công nghiệp hóa, người lao động thường phải làm việc nhiều giờ, ít có thời gian dành cho gia đình. Việc cân bằng giữa công việc và nuôi dạy con cái trở thành một thách thức, khiến nhiều cặp vợ chồng ngại sinh con.
Bên cạnh đó, vấn đề nhà ở cũng ảnh hưởng không nhỏ. Giá nhà đất, đặc biệt tại các khu vực đô thị ở Đồng Nai ngày càng tăng cao. Nhiều cặp vợ chồng trẻ gặp khó khăn trong việc mua hoặc thuê nhà đủ rộng để sinh sống và nuôi dạy con cái, dẫn đến tâm lý trì hoãn sinh con.

Nhân viên y tế theo dõi, chăm sóc trẻ mới sinh tại Bệnh viện ĐK Đồng Nai.
Ngoài ra, thiếu hụt dịch vụ hỗ trợ nuôi dạy trẻ như nhà trẻ, mẫu giáo chất lượng, cùng với tình trạng tỷ lệ vô sinh và nạo phá thai ngoài ý muốn gia tăng, cũng là những yếu tố làm giảm mức sinh. Không chỉ vậy, xu hướng ưu tiên phát triển sự nghiệp, theo đuổi lối sống tự do cũng khiến nhiều cặp vợ chồng trẻ trì hoãn hoặc không muốn có con.
Tất cả những yếu tố trên đang góp phần kéo mức sinh của Đồng Nai xuống thấp, đặt ra thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của tỉnh trong tương lai.
PV: Với đặc thù là một tỉnh có nhiều khu công nghiệp và lực lượng lớn lao động trẻ từ các tỉnh khác đến làm việc, điều này đã tác động như thế nào đến mức sinh chung của Đồng Nai?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Mô hình dân cư công nghiệp tại Đồng Nai, với sự tập trung của hơn 30 khu khu công nghiệp cùng lực lượng lớn lao động trẻ nhập cư, có tác động đáng kể đến mức sinh chung của địa phương. Dù dòng người nhập cư giúp gia tăng quy mô dân số, nhưng mức sinh thực tế lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố sau:
Áp lực kinh tế và điều kiện sống khó khăn: Phần lớn công nhân nhập cư có thu nhập không cao, trong khi chi phí nhà trọ, sinh hoạt và nuôi dạy con ngày càng đắt đỏ. Điều này khiến nhiều cặp vợ chồng e ngại sinh con hoặc chỉ dừng lại ở một con để giảm gánh nặng tài chính.
Thiếu hụt cơ sở hạ tầng xã hội: Sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp không đi đôi với việc đầu tư tương xứng vào nhà ở, trường học, bệnh viện và các dịch vụ hỗ trợ gia đình. Điều này gây khó khăn cho công nhân trong việc ổn định cuộc sống và lập kế hoạch sinh con lâu dài.
Tâm lý tạm bợ, thiếu gắn kết cộng đồng: Nhiều lao động nhập cư coi việc làm tại các khu công nghiệp là giải pháp ngắn hạn để kiếm thu nhập, dẫn đến tâm lý không muốn sinh con tại nơi tạm trú và thiếu sự gắn kết với địa phương.
PV: Xin bà cho biết, thời gian qua tỉnh Đồng Nai đã triển khai những chính sách gì nhằm khuyến khích các gia đình sinh đủ hai con?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Để khuyến khích các gia đình sinh đủ hai con và hỗ trợ các cặp vợ chồng trẻ, tỉnh Đồng Nai đã triển khai một số chính sách và chương trình cụ thể:
Hỗ trợ tài chính cho phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi: Theo nghị quyết của HĐND tỉnh, từ ngày 01/01/2025, phụ nữ có hộ khẩu thường trú tại Đồng Nai, sinh đủ hai con trước 35 tuổi, sẽ được hỗ trợ một lần số tiền 1 triệu đồng.
Khen thưởng địa phương có tỷ lệ sinh đủ hai con cao: Các xã, phường, thị trấn duy trì tỷ lệ 60% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sinh đủ hai con trong 3 năm liên tục sẽ được thưởng 20 triệu đồng; nếu đạt 5 năm liên tiếp, mức thưởng tăng lên 40 triệu đồng.
Ngoài ra, để giảm áp lực kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nuôi dạy con cái, tỉnh đang xem xét và đề xuất các giải pháp sau:
Đầu tư hệ thống nhà ở xã hội cho các cặp vợ chồng trẻ, giúp giảm áp lực về chỗ ở. Mở rộng hệ thống nhà trẻ công lập, giảm chi phí dịch vụ chăm sóc trẻ, giúp phụ huynh an tâm làm việc. Hỗ trợ chi phí y tế, tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho trẻ nhỏ.
Việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các chính sách này không chỉ góp phần khuyến khích sinh con mà còn tạo môi trường thuận lợi để các cặp vợ chồng trẻ yên tâm nuôi dạy con cái, đảm bảo sự phát triển bền vững của tỉnh Đồng Nai.
PV: Trong thời gian tới, ngành Y tế tỉnh Đồng Nai có những chiến lược gì để điều chỉnh mức sinh, đảm bảo phù hợp với thực tế dân số và nhu cầu phát triển của địa phương thưa bà?
ThS Võ Thị Ngọc Lắm: Để điều chỉnh mức sinh phù hợp với thực tế dân số và nhu cầu phát triển của địa phương, trong thời gian tới, ngành y tế tỉnh Đồng Nai phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục: Nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ, về tầm quan trọng của việc duy trì mức sinh hợp lý. Đẩy mạnh truyền thông về lợi ích của việc sinh đủ hai con, tổ chức các buổi tư vấn, hội thảo chuyên đề về sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình.
Cải thiện chất lượng dịch vụ y tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt tại các khu công nghiệp, nơi tập trung đông lao động trẻ. Mở rộng mạng lưới cơ sở y tế cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, đảm bảo người dân dễ dàng tiếp cận. Đầu tư phát triển các dịch vụ hỗ trợ sinh sản cho cặp vợ chồng hiếm muộn, nâng cao chất lượng khám và sàng lọc trước, sau sinh.
Triển khai chính sách hỗ trợ thiết thực: Đề xuất các chính sách hỗ trợ tài chính cho gia đình sinh đủ hai con, bao gồm trợ cấp sinh nở, hỗ trợ giáo dục và y tế cho trẻ em. Hỗ trợ nhà ở xã hội, tạo điều kiện giúp các cặp vợ chồng trẻ ổn định cuộc sống. Đầu tư phát triển hệ thống nhà trẻ, trường mầm non với chi phí hợp lý, giúp cha mẹ yên tâm làm việc. Tạo môi trường làm việc thân thiện với gia đình: tăng thời gian nghỉ thai sản, xây dựng nhà trẻ tại khu công nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp có chính sách hỗ trợ lao động nữ nuôi con nhỏ. Khuyến khích nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi và phụ nữ sinh con thứ hai trước 35 tuổi.
Tăng cường phối hợp liên ngành: Thiết lập cơ chế phối hợp giữa ngành y tế, giáo dục cùng các cấp chính quyền địa phương, doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả chính sách dân số. Huy động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền và hỗ trợ các gia đình trẻ.
Nghiên cứu, đánh giá và điều chỉnh chính sách: Thường xuyên nghiên cứu, đánh giá xu hướng mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng để đề xuất giải pháp phù hợp. Theo dõi hiệu quả của các chương trình, chính sách dân số để kịp thời điều chỉnh, nâng cao hiệu quả thực hiện.
Mức sinh không chỉ là quyết định của từng gia đình mà còn là yếu tố quan trọng định hình sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Việc triển khai hiệu quả các giải pháp sẽ góp phần nâng mức sinh đạt ngưỡng thay thế, phù hợp với thực trạng dân số của tỉnh, đồng thời đảm bảo nguồn nhân lực ổn định, thúc đẩy sự phát triển lâu dài của Đồng Nai.
Xin cảm ơn ThS Võ Thị Ngọc Lắm!
Bích Ngọc (thực hiện)