Sử dụng kem chống nắng là một trong những bước chăm sóc da vô cùng quan trọng. Lựa chọn kem chống nắng phù hợp sẽ giúp bảo vệ da hiệu quả dưới tác động của tia cực tím (UV), giảm thiểu nguy cơ lão hóa và ung thư da.
Tác hại của tia cực tím đối với da
Trong thành phần của tia cực tím từ ánh sáng mặt trời xuyên qua tầng khí quyển đến mặt đất có đến 95% là tia UVA (gồm UVA1 và UVA2) ở bước sóng từ 320 – 400nm, với cường độ ổn định quanh năm. Khoảng 5% còn lại là tia UVB ở bước sóng 290 – 320 nm với cường độ không ổn định, thay đổi theo mùa, cường độ ánh sáng vào mùa hè mạnh hơn mùa đông, thời điểm giữa ngày mạnh hơn so với thời điểm sáng sớm và chiều muộn, vị trí gần xích đạo sẽ có cường độ mạnh hơn so với xa xích đạo. Ngoài ra, một phần tia UVB sẽ bị hấp thu bởi tầng bình lưu, không khí ô nhiễm, các đám mây, …. Khi giao thông trên đường, cũng cần lưu ý với mặt đường bê tông hoặc cát có thể làm phản xạ 85% ánh sáng mặt trời trong đó có tia UV.

Thành phần tia UV trong ánh sáng mặt trời.
Tác hại của tia UVB chủ yếu trên da bao gồm đỏ da, cháy nắng, lão hóa da (suy giảm độ đàn hồi da, đổi màu da, mất collagen,…) và ung thư da. Mức độ đỏ da cháy nắng phụ thuộc nhiều vào loại da, độ dày của da, lượng sắc tố melanin có sẵn và khả năng sản xuất melanin của từng loại da sau khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Tác hại của tia UVA và cả ánh sáng nhìn thấy chủ yếu là sạm da (có liên quan đến oxi hóa sắc tố melanin, khiến cho ADN trên da bị phá hủy), nếu có tiếp xúc với tia UVB, sạm da sẽ xuất hiện trễ hơn, sau 2 – 10 ngày và kéo dài vài tuần đến vài tháng.
Các chỉ số, hoạt chất trong kem chống nắng
Việc xây dựng cho mình những thói quen bảo vệ da cơ bản, điển hình từ việc bôi kem chống nắng hàng ngày là cần thiết. Việc lựa chọn kem chống nắng cần quan tâm đến chỉ số SPF phù hợp cho từng loại da và phổ bảo vệ phù hợp với mục đích sử dụng.
Chỉ số SPF – Sun protection factor là chỉ số đo khả năng bảo vệ da không bị cháy nắng do tia UVB của kem chống nắng, không liên quan đến hiệu quả bảo vệ đối với tia UVA. SPF được hiểu là tỷ lệ của liều tối thiểu bức xạ mặt trời tạo ra ban đỏ có thể nhìn thấy trên da được bảo vệ so với da không được bảo vệ. Khi nói SPF– 15 có nghĩa là nếu một người thường bị cháy nắng sau 10 phút khi dùng một lượng kem tối thiểu là 2mg/cm2 da có thể được bảo vệ trong khoảng 10*15 = 150 phút. Đối với kem chống nắng có SPF–15 có thể ngăn khoảng 90% tia UVB, thích hợp sử dụng hàng ngày. SPF ≥ 30, ngăn được khoảng 97% tia UVB, thích hợp lao động ngoài trời hoặc dùng trong các hoạt động thể thao.
Các hoạt chất sử dụng để chống nắng được phân thành 2 nhóm: vô cơ và hữu cơ. Các hoạt chất vô cơ thường được sử dụng là titan dioxid, kẽm oxid. Các chất này sẽ tạo một lớp bảo vệ giúp phản xạ tia UV từ ánh sáng mặt trời. Khoảng bảo vệ của nhóm chất chống nắng vô cơ ngoài UVB có khả năng mở rộng ra một phần tia UVA, tuy nhiên nhược điểm của nhóm chất chống nắng vô cơ thường là do kích thước phân tử lớn, khi sử dụng hình thành lớp màng trắng trên bề mặt da, khó chấp nhận về mặt thẩm mỹ. Ngày nay, sử dụng công nghệ nano đã bào chế được dạng kích thước phân tử nhỏ, mịn, hỗ trợ làm trắng da khi sử dụng.
Một nhóm khác là kem chống nắng hữu cơ hiện đang được sử dụng trên thị trường khá đa dạng với nhiều hoạt chất và khoảng bảo vệ khác nhau. Chất chống nắng hữu cơ chuyển hóa ánh sáng mặt trời có chứa tia UV thành nhiệt hoặc nhóm bước sóng khác ít gây hại cho da. Nhược điểm của nhóm này là khoảng bảo vệ hẹp và kém bền dưới ánh sáng mặt trời hơn so với nhóm hoạt chất chống nắng vô cơ .

Cơ chế tác dụng của các hoạt chất chống nắng.
Một số nhóm hoạt chất chống nắng hữu cơ chỉ có khả năng bảo vệ khỏi tia UVB như dẫn xuất PABA, cinnamat, salicylat, octocrylene, ensulizol. Một số nhóm khác có khoảng bảo vệ mở rộng thêm tia UVA2 như benzophenon, ecamsul. Riêng nhóm avobenzon và meradimat chỉ có hiệu quả bảo vệ khỏi tia UVA mà không có tác dụng đối với tia UVB.
Một số ít hoạt chất chống nắng hữu cơ nghiên cứu trên động vật cho thấy có khả năng ảnh hưởng đến gan thận và cơ quan sinh dục (ở chuột) hoặc làm tăng sinh tế bào ung thư vú.
Khuynh hướng trong công nghệ bào chế kem chống nắng hiện nay là phối hợp các hoạt chất vô cơ và hoạt chất hữu cơ trong một chế phẩm để khắc phục nhược điểm, mở rộng khoảng bảo vệ và làm tăng độ bền với ánh sáng mặt trời.
Thuật ngữ khác cần biết trên bao bì kem chống nắng là water resistant có nghĩa là kem chống nắng có khả năng duy trì được SPF sau 40 phút sau khi bơi hoặc ra mồ hôi và và đối với very water resistant là 80 phút.
Cách sử dụng kem chống nắng hiệu quả
Nên sử dụng kem chống nắng cho những người da sáng, dễ bị cháy nắng, dễ bị lão hóa da. Kem chống nắng cần sử dụng với lượng tối thiểu là 2mg/cm2 da và sử dụng trước khi ra nắng 15 – 30 phút (SPF ≥ 15) để có thời gian hấp thu vào da, giảm khả năng bị rửa trôi. Cần lặp lại mỗi 2 giờ sau khi bơi hoặc đổ mồ hôi để duy trì hiệu quả bảo vệ khỏi tia UV.
Thận trọng khi sử dụng kem chống nắng ở phụ nữ cho con bú vì có một số hoạt chất có khả năng đi qua sữa mẹ (Benzophenone 2, benzophenone 3, 3-benzylidene camphor, 4-MBC, OMC, homosalate, octocrylene, and octyl-dimethyl PABA). Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) khuyến cáo không dùng kem chống nắng cho trẻ dưới 6 tháng. Khi lựa chọn kem chống nắng cho trẻ nên ưu tiên lựa chọn kem chống nắng vô cơ, cần tránh những thành phần có khả năng gây độc tính trên da như cồn, acid boric, hexa chlorophene, thủy ngân clorid.
Tóm lại, kem chống nắng là một trong những biện pháp cần thiết để bảo vệ da tránh khỏi những tổn thương gây ra do tia UV trong ánh sáng mặt trời. Việc lựa chọn kem chống nắng cần quan tâm đến đối tượng, chỉ số SPF, PA phù hợp với mục đích sử dụng. Bên cạnh đó, cách dùng kem chống nắng đủ lượng, đúng thời gian quan trọng hơn việc lựa chọn sản phẩm có SPF cao. Nếu dùng thiếu, dùng không đúng làn da không có tác dụng bảo vệ tối ưu, da vẫn sẽ sạm đen và nhanh lão hóa, thậm chí có thể dẫn đến ung thư da.
ThS. DS Nguyễn Tố Giang
Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai